Nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí

khoadongluc
Bình luận: 12Lượt xem: 40,535

khoadongluc

Nothing Is Impossible
Nhân viên
- Nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí được thể hiện trên hình. Nó bao gồm một buồng chứa xăng thường gọi là buồng phao, các đường dẫn xăng và các đường dẫn khí, họng khuyếch tán và các van điều khiển (bướm ga, bướm khí).
- Bộ phận cơ bản của bộ chế hoà khí là họng khuyếch tỏn (còn gọi là buồng hoà khí), nó cấu tạo như một đoạn ống bị thắt lại ở đoạn giữa (venturi). Chính ở đoạn này người ta bố trí ống phun của đường xăng chính.

- Khi động cơ hoạt động, (bướm ga và bướm khí đều mở) không khí bị hút vào từ phía trên, đi qua họng khuyếch tán. Tại đây, do tiết diện lưu thông bị thu hẹp lại, tốc độ của dòng khí tăng lên làm áp suất giảm xuống tạo độ chân không hút nhiên liệu từ trong buồng phao qua đường xăng chính và phun ra dưới dạng tia. Như vậy, xăng bị phun vào dòng khí có tốc độ cao, hoà trộn với không khí và bay hơi để tạo thành hỗn hợp khí cháy.

Tuy nhiên, do thời gian tạo hỗn hợp ở đây quá ngắn nên vẫn còn một lượng xăng nhất định chưa kịp bay hơi. Để tạo được hỗn hợp khí cháy hoàn chỉnh thì cần phải tạo điều kiện tốt để lượng xăng còn lại này bay hơi nốt trước khi bugi phát tia lửa điện (sử dụng xăng dễ bay hơi, xấy nóng xăng và khí nạp, tạo mặt thoáng và áp suất thấp trên đường ống hút để các giọt nhiên liệu bay hơi nốt, ...). Để tăng hơn nữa độ chân không trong buồng hoà khí, người ta sử dụng các bộ chế hoà khí có 2 hoặc 3 ống khuyếch tán đặt nối tiếp nhau.
- Lượng khí được hút qua carburetor phụ thuộc vào độ mở của bướm ga: bướm ga mở càng lớn thì lượng khí đi qua càng nhiều, nghĩa là tốc độ dòng khí ở họng khuyếch tán càng tăng và lượng xăng bị hút vào càng lớn. Như vậy, bướm ga cho phép điều khiển hoạt động của động cơ ở các chế độ tải khác nhau tuỳ theo điều kiện làm việc. Việc điều khiển bướm ga được thực hiện nhờ một bàn đạp bố trí trong ca bin ôtô, thường được gọi là bàn đạp ga.
- Để bộ chế hoà khí có thể hoạt động bình thường ở mọi chế độ làm việc của động cơ, người ta khống chế mức xăng trong buồng phao luôn luôn không đổi nhờ một cơ cấu đóng mở tự động. Cơ cấu bao gồm một quả phao và một van đặt trên đường cấp xăng. Quả phao được gắn với vỏ của buồng phao bằng một khớp bản lề, sao cho nó có thể di chuyển lên xuống dễ dàng và luôn luôn nổi trên bề mặt xăng. Van có nhiệm vụ đóng, mở để điều khiển việc cấp xăng vào buồng phao. Kim van được gắn trên phao nên nó di chuyển lên, xuống cùng với phao. Khi lượng xăng trong buồng tăng thì phao nổi lên, kim van đi lên rồi đóng chặt lỗ van khi mức xăng đạt giá trị định mức. Khi mức xăng trong buồng giảm xuống thì phao đi xuống theo, kim van mở ra và xăng lại tiếp tục được cấp vào trong buồng.
- Đối với bộ chế hoà khí, áp suất trên mặt thoáng của buồng phao đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì lượng xăng mà nó cấp cho động cơ hoàn toàn phụ thuộc vào độ chênh áp giữa họng khuyếch tán và mặt thoáng buồng phao. Người ta phân biệt 2 dạng buồng phao: buồng phao cân bằng và buồng phao không cân bằng. Buồng phao cõn bằng có mặt thoáng được nối thông với khí trời, do vậy áp suất trong buồng phao luôn luôn bằng áp suất khí trời. Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết. Buồng phao khụng cõn bằng có mặt thoáng được nối với ống hút, nằm ngay phía trên bướm khí, nhờ vậy mà khi độ chân không ở phía trước bộ chế hoà khí bị thay đổi (tắc lọc khí) thì áp suất mặt thoáng cũng thay đổi theo, do đó lượng nhiên liệu được hút vào vẫn không thay đổi.
- Bướm khí dùng để thay đổi độ chân không trong buồng hoà khí, nó thường chỉ được sử dụng khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội (xem phần chế độ khởi động của chế hoà khí). Bướm khí thường được điều khiển bằng dây cáp từ trong ca bin ôtô.
Một vài hình ảnh về bộ chế hòa khí trên các dòng xe đời mới






Trên đây là nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí tối giản. Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều. Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để phù hợp với chế độ làm việc của động cơ. Để xem chi tiết xin đọc bài viết Các chế độ làm việc của bộ chế hoà khí
 

xuandat1987

Tài xế O-H
Bác cho em hỏi van thu hồi hơi xăng trong bộ chế hòa khí Toyota dùng để làm gì zậy Bác, nguyên lý hoạt động ra sao.... thanks các Bác trước
 

nguyenvan77

Tài xế O-H
Em đang cần! cảm ơn anh nhiều!

- Nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí được thể hiện trên hình. Nó bao gồm một buồng chứa xăng thường gọi là buồng phao, các đường dẫn xăng và các đường dẫn khí, họng khuyếch tán và các van điều khiển (bướm ga, bướm khí).

- Bộ phận cơ bản của bộ chế hoà khí là họng khuyếch tỏn (còn gọi là buồng hoà khí), nó cấu tạo như một đoạn ống bị thắt lại ở đoạn giữa (venturi). Chính ở đoạn này người ta bố trí ống phun của đường xăng chính.


- Khi động cơ hoạt động, (bướm ga và bướm khí đều mở) không khí bị hút vào từ phía trên, đi qua họng khuyếch tán. Tại đây, do tiết diện lưu thông bị thu hẹp lại, tốc độ của dòng khí tăng lên làm áp suất giảm xuống tạo độ chân không hút nhiên liệu từ trong buồng phao qua đường xăng chính và phun ra dưới dạng tia. Như vậy, xăng bị phun vào dòng khí có tốc độ cao, hoà trộn với không khí và bay hơi để tạo thành hỗn hợp khí cháy.

Tuy nhiên, do thời gian tạo hỗn hợp ở đây quá ngắn nên vẫn còn một lượng xăng nhất định chưa kịp bay hơi. Để tạo được hỗn hợp khí cháy hoàn chỉnh thì cần phải tạo điều kiện tốt để lượng xăng còn lại này bay hơi nốt trước khi bugi phát tia lửa điện (sử dụng xăng dễ bay hơi, xấy nóng xăng và khí nạp, tạo mặt thoáng và áp suất thấp trên đường ống hút để các giọt nhiên liệu bay hơi nốt, ...). Để tăng hơn nữa độ chân không trong buồng hoà khí, người ta sử dụng các bộ chế hoà khí có 2 hoặc 3 ống khuyếch tán đặt nối tiếp nhau.

- Lượng khí được hút qua carburetor phụ thuộc vào độ mở của bướm ga: bướm ga mở càng lớn thì lượng khí đi qua càng nhiều, nghĩa là tốc độ dòng khí ở họng khuyếch tán càng tăng và lượng xăng bị hút vào càng lớn. Như vậy, bướm ga cho phép điều khiển hoạt động của động cơ ở các chế độ tải khác nhau tuỳ theo điều kiện làm việc. Việc điều khiển bướm ga được thực hiện nhờ một bàn đạp bố trí trong ca bin ôtô, thường được gọi là bàn đạp ga.

- Để bộ chế hoà khí có thể hoạt động bình thường ở mọi chế độ làm việc của động cơ, người ta khống chế mức xăng trong buồng phao luôn luôn không đổi nhờ một cơ cấu đóng mở tự động. Cơ cấu bao gồm một quả phao và một van đặt trên đường cấp xăng. Quả phao được gắn với vỏ của buồng phao bằng một khớp bản lề, sao cho nó có thể di chuyển lên xuống dễ dàng và luôn luôn nổi trên bề mặt xăng. Van có nhiệm vụ đóng, mở để điều khiển việc cấp xăng vào buồng phao. Kim van được gắn trên phao nên nó di chuyển lên, xuống cùng với phao. Khi lượng xăng trong buồng tăng thì phao nổi lên, kim van đi lên rồi đóng chặt lỗ van khi mức xăng đạt giá trị định mức. Khi mức xăng trong buồng giảm xuống thì phao đi xuống theo, kim van mở ra và xăng lại tiếp tục được cấp vào trong buồng.

- Đối với bộ chế hoà khí, áp suất trên mặt thoáng của buồng phao đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì lượng xăng mà nó cấp cho động cơ hoàn toàn phụ thuộc vào độ chênh áp giữa họng khuyếch tán và mặt thoáng buồng phao. Người ta phân biệt 2 dạng buồng phao: buồng phao cân bằng và buồng phao không cân bằng. Buồng phao cõn bằng có mặt thoáng được nối thông với khí trời, do vậy áp suất trong buồng phao luôn luôn bằng áp suất khí trời. Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết. Buồng phao khụng cõn bằng có mặt thoáng được nối với ống hút, nằm ngay phía trên bướm khí, nhờ vậy mà khi độ chân không ở phía trước bộ chế hoà khí bị thay đổi (tắc lọc khí) thì áp suất mặt thoáng cũng thay đổi theo, do đó lượng nhiên liệu được hút vào vẫn không thay đổi.
- Bướm khí dùng để thay đổi độ chân không trong buồng hoà khí, nó thường chỉ được sử dụng khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội (xem phần chế độ khởi động của chế hoà khí). Bướm khí thường được điều khiển bằng dây cáp từ trong ca bin ôtô.
Một vài hình ảnh về bộ chế hòa khí trên các dòng xe đời mới





Trên đây là nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí tối giản. Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều. Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để phù hợp với chế độ làm việc của động cơ. Để xem chi tiết xin đọc bài viết Các chế độ làm việc của bộ chế hoà khí
 

kandykute1

Tài xế O-H
bác nào giải thích thêm hộ em đoạn này được không ạ. em cảm ơn trước ạ :D "Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết"
- Nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí được thể hiện trên hình. Nó bao gồm một buồng chứa xăng thường gọi là buồng phao, các đường dẫn xăng và các đường dẫn khí, họng khuyếch tán và các van điều khiển (bướm ga, bướm khí).

- Bộ phận cơ bản của bộ chế hoà khí là họng khuyếch tỏn (còn gọi là buồng hoà khí), nó cấu tạo như một đoạn ống bị thắt lại ở đoạn giữa (venturi). Chính ở đoạn này người ta bố trí ống phun của đường xăng chính.


- Khi động cơ hoạt động, (bướm ga và bướm khí đều mở) không khí bị hút vào từ phía trên, đi qua họng khuyếch tán. Tại đây, do tiết diện lưu thông bị thu hẹp lại, tốc độ của dòng khí tăng lên làm áp suất giảm xuống tạo độ chân không hút nhiên liệu từ trong buồng phao qua đường xăng chính và phun ra dưới dạng tia. Như vậy, xăng bị phun vào dòng khí có tốc độ cao, hoà trộn với không khí và bay hơi để tạo thành hỗn hợp khí cháy.

Tuy nhiên, do thời gian tạo hỗn hợp ở đây quá ngắn nên vẫn còn một lượng xăng nhất định chưa kịp bay hơi. Để tạo được hỗn hợp khí cháy hoàn chỉnh thì cần phải tạo điều kiện tốt để lượng xăng còn lại này bay hơi nốt trước khi bugi phát tia lửa điện (sử dụng xăng dễ bay hơi, xấy nóng xăng và khí nạp, tạo mặt thoáng và áp suất thấp trên đường ống hút để các giọt nhiên liệu bay hơi nốt, ...). Để tăng hơn nữa độ chân không trong buồng hoà khí, người ta sử dụng các bộ chế hoà khí có 2 hoặc 3 ống khuyếch tán đặt nối tiếp nhau.

- Lượng khí được hút qua carburetor phụ thuộc vào độ mở của bướm ga: bướm ga mở càng lớn thì lượng khí đi qua càng nhiều, nghĩa là tốc độ dòng khí ở họng khuyếch tán càng tăng và lượng xăng bị hút vào càng lớn. Như vậy, bướm ga cho phép điều khiển hoạt động của động cơ ở các chế độ tải khác nhau tuỳ theo điều kiện làm việc. Việc điều khiển bướm ga được thực hiện nhờ một bàn đạp bố trí trong ca bin ôtô, thường được gọi là bàn đạp ga.

- Để bộ chế hoà khí có thể hoạt động bình thường ở mọi chế độ làm việc của động cơ, người ta khống chế mức xăng trong buồng phao luôn luôn không đổi nhờ một cơ cấu đóng mở tự động. Cơ cấu bao gồm một quả phao và một van đặt trên đường cấp xăng. Quả phao được gắn với vỏ của buồng phao bằng một khớp bản lề, sao cho nó có thể di chuyển lên xuống dễ dàng và luôn luôn nổi trên bề mặt xăng. Van có nhiệm vụ đóng, mở để điều khiển việc cấp xăng vào buồng phao. Kim van được gắn trên phao nên nó di chuyển lên, xuống cùng với phao. Khi lượng xăng trong buồng tăng thì phao nổi lên, kim van đi lên rồi đóng chặt lỗ van khi mức xăng đạt giá trị định mức. Khi mức xăng trong buồng giảm xuống thì phao đi xuống theo, kim van mở ra và xăng lại tiếp tục được cấp vào trong buồng.

- Đối với bộ chế hoà khí, áp suất trên mặt thoáng của buồng phao đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì lượng xăng mà nó cấp cho động cơ hoàn toàn phụ thuộc vào độ chênh áp giữa họng khuyếch tán và mặt thoáng buồng phao. Người ta phân biệt 2 dạng buồng phao: buồng phao cân bằng và buồng phao không cân bằng. Buồng phao cõn bằng có mặt thoáng được nối thông với khí trời, do vậy áp suất trong buồng phao luôn luôn bằng áp suất khí trời. Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết. Buồng phao khụng cõn bằng có mặt thoáng được nối với ống hút, nằm ngay phía trên bướm khí, nhờ vậy mà khi độ chân không ở phía trước bộ chế hoà khí bị thay đổi (tắc lọc khí) thì áp suất mặt thoáng cũng thay đổi theo, do đó lượng nhiên liệu được hút vào vẫn không thay đổi.
- Bướm khí dùng để thay đổi độ chân không trong buồng hoà khí, nó thường chỉ được sử dụng khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội (xem phần chế độ khởi động của chế hoà khí). Bướm khí thường được điều khiển bằng dây cáp từ trong ca bin ôtô.
Một vài hình ảnh về bộ chế hòa khí trên các dòng xe đời mới





Trên đây là nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí tối giản. Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều. Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để phù hợp với chế độ làm việc của động cơ. Để xem chi tiết xin đọc bài viết Các chế độ làm việc của bộ chế hoà khí
 

Cai banh xe

Kích thích nghĩa là kích vào chỗ người ta Thích!
bác nào giải thích thêm hộ em đoạn này được không ạ. em cảm ơn trước ạ :D "Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết"
Giải thích gì nhỉ, nó sai rồi
 

hoangvandien

Tài xế O-H
bác nào giải thích thêm hộ em đoạn này được không ạ. em cảm ơn trước ạ :D "Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết"
loại cân bằng, khi bầu lọc nghẹt, độ chân không tăng lên, áp suất giảm ( bé hơn 1 atm ) trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao không đổi ( áp suất khí trời, 1 atm ) sự chênh áp đương nhiên làm cho nhiên liệu bị đẩy từ nơi áp cao tới nơi áp thấp, làm nhiên liệu nhiều hơn.
loại không cân bằng, do mặt thoáng được thông với ống hút, nên áp suất cân bằng ( đều bé hơn 1 atm ) không có chênh áp, nhiên hiệu được hút vào như bình thường nhờ lực hút của dòng khí nạp.
upload_2017-8-29_0-4-50.png
 

Quyen_Tran

Tài xế O-H
- Nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí được thể hiện trên hình. Nó bao gồm một buồng chứa xăng thường gọi là buồng phao, các đường dẫn xăng và các đường dẫn khí, họng khuyếch tán và các van điều khiển (bướm ga, bướm khí).

- Bộ phận cơ bản của bộ chế hoà khí là họng khuyếch tỏn (còn gọi là buồng hoà khí), nó cấu tạo như một đoạn ống bị thắt lại ở đoạn giữa (venturi). Chính ở đoạn này người ta bố trí ống phun của đường xăng chính.


- Khi động cơ hoạt động, (bướm ga và bướm khí đều mở) không khí bị hút vào từ phía trên, đi qua họng khuyếch tán. Tại đây, do tiết diện lưu thông bị thu hẹp lại, tốc độ của dòng khí tăng lên làm áp suất giảm xuống tạo độ chân không hút nhiên liệu từ trong buồng phao qua đường xăng chính và phun ra dưới dạng tia. Như vậy, xăng bị phun vào dòng khí có tốc độ cao, hoà trộn với không khí và bay hơi để tạo thành hỗn hợp khí cháy.

Tuy nhiên, do thời gian tạo hỗn hợp ở đây quá ngắn nên vẫn còn một lượng xăng nhất định chưa kịp bay hơi. Để tạo được hỗn hợp khí cháy hoàn chỉnh thì cần phải tạo điều kiện tốt để lượng xăng còn lại này bay hơi nốt trước khi bugi phát tia lửa điện (sử dụng xăng dễ bay hơi, xấy nóng xăng và khí nạp, tạo mặt thoáng và áp suất thấp trên đường ống hút để các giọt nhiên liệu bay hơi nốt, ...). Để tăng hơn nữa độ chân không trong buồng hoà khí, người ta sử dụng các bộ chế hoà khí có 2 hoặc 3 ống khuyếch tán đặt nối tiếp nhau.

- Lượng khí được hút qua carburetor phụ thuộc vào độ mở của bướm ga: bướm ga mở càng lớn thì lượng khí đi qua càng nhiều, nghĩa là tốc độ dòng khí ở họng khuyếch tán càng tăng và lượng xăng bị hút vào càng lớn. Như vậy, bướm ga cho phép điều khiển hoạt động của động cơ ở các chế độ tải khác nhau tuỳ theo điều kiện làm việc. Việc điều khiển bướm ga được thực hiện nhờ một bàn đạp bố trí trong ca bin ôtô, thường được gọi là bàn đạp ga.

- Để bộ chế hoà khí có thể hoạt động bình thường ở mọi chế độ làm việc của động cơ, người ta khống chế mức xăng trong buồng phao luôn luôn không đổi nhờ một cơ cấu đóng mở tự động. Cơ cấu bao gồm một quả phao và một van đặt trên đường cấp xăng. Quả phao được gắn với vỏ của buồng phao bằng một khớp bản lề, sao cho nó có thể di chuyển lên xuống dễ dàng và luôn luôn nổi trên bề mặt xăng. Van có nhiệm vụ đóng, mở để điều khiển việc cấp xăng vào buồng phao. Kim van được gắn trên phao nên nó di chuyển lên, xuống cùng với phao. Khi lượng xăng trong buồng tăng thì phao nổi lên, kim van đi lên rồi đóng chặt lỗ van khi mức xăng đạt giá trị định mức. Khi mức xăng trong buồng giảm xuống thì phao đi xuống theo, kim van mở ra và xăng lại tiếp tục được cấp vào trong buồng.

- Đối với bộ chế hoà khí, áp suất trên mặt thoáng của buồng phao đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì lượng xăng mà nó cấp cho động cơ hoàn toàn phụ thuộc vào độ chênh áp giữa họng khuyếch tán và mặt thoáng buồng phao. Người ta phân biệt 2 dạng buồng phao: buồng phao cân bằng và buồng phao không cân bằng. Buồng phao cõn bằng có mặt thoáng được nối thông với khí trời, do vậy áp suất trong buồng phao luôn luôn bằng áp suất khí trời. Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết. Buồng phao khụng cõn bằng có mặt thoáng được nối với ống hút, nằm ngay phía trên bướm khí, nhờ vậy mà khi độ chân không ở phía trước bộ chế hoà khí bị thay đổi (tắc lọc khí) thì áp suất mặt thoáng cũng thay đổi theo, do đó lượng nhiên liệu được hút vào vẫn không thay đổi.
- Bướm khí dùng để thay đổi độ chân không trong buồng hoà khí, nó thường chỉ được sử dụng khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội (xem phần chế độ khởi động của chế hoà khí). Bướm khí thường được điều khiển bằng dây cáp từ trong ca bin ôtô.
Một vài hình ảnh về bộ chế hòa khí trên các dòng xe đời mới





Trên đây là nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí tối giản. Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều. Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để phù hợp với chế độ làm việc của động cơ. Để xem chi tiết xin đọc bài viết Các chế độ làm việc của bộ chế hoà khí
cam ơn bác
 

Quyen_Tran

Tài xế O-H
- Nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí được thể hiện trên hình. Nó bao gồm một buồng chứa xăng thường gọi là buồng phao, các đường dẫn xăng và các đường dẫn khí, họng khuyếch tán và các van điều khiển (bướm ga, bướm khí).

- Bộ phận cơ bản của bộ chế hoà khí là họng khuyếch tỏn (còn gọi là buồng hoà khí), nó cấu tạo như một đoạn ống bị thắt lại ở đoạn giữa (venturi). Chính ở đoạn này người ta bố trí ống phun của đường xăng chính.


- Khi động cơ hoạt động, (bướm ga và bướm khí đều mở) không khí bị hút vào từ phía trên, đi qua họng khuyếch tán. Tại đây, do tiết diện lưu thông bị thu hẹp lại, tốc độ của dòng khí tăng lên làm áp suất giảm xuống tạo độ chân không hút nhiên liệu từ trong buồng phao qua đường xăng chính và phun ra dưới dạng tia. Như vậy, xăng bị phun vào dòng khí có tốc độ cao, hoà trộn với không khí và bay hơi để tạo thành hỗn hợp khí cháy.

Tuy nhiên, do thời gian tạo hỗn hợp ở đây quá ngắn nên vẫn còn một lượng xăng nhất định chưa kịp bay hơi. Để tạo được hỗn hợp khí cháy hoàn chỉnh thì cần phải tạo điều kiện tốt để lượng xăng còn lại này bay hơi nốt trước khi bugi phát tia lửa điện (sử dụng xăng dễ bay hơi, xấy nóng xăng và khí nạp, tạo mặt thoáng và áp suất thấp trên đường ống hút để các giọt nhiên liệu bay hơi nốt, ...). Để tăng hơn nữa độ chân không trong buồng hoà khí, người ta sử dụng các bộ chế hoà khí có 2 hoặc 3 ống khuyếch tán đặt nối tiếp nhau.

- Lượng khí được hút qua carburetor phụ thuộc vào độ mở của bướm ga: bướm ga mở càng lớn thì lượng khí đi qua càng nhiều, nghĩa là tốc độ dòng khí ở họng khuyếch tán càng tăng và lượng xăng bị hút vào càng lớn. Như vậy, bướm ga cho phép điều khiển hoạt động của động cơ ở các chế độ tải khác nhau tuỳ theo điều kiện làm việc. Việc điều khiển bướm ga được thực hiện nhờ một bàn đạp bố trí trong ca bin ôtô, thường được gọi là bàn đạp ga.

- Để bộ chế hoà khí có thể hoạt động bình thường ở mọi chế độ làm việc của động cơ, người ta khống chế mức xăng trong buồng phao luôn luôn không đổi nhờ một cơ cấu đóng mở tự động. Cơ cấu bao gồm một quả phao và một van đặt trên đường cấp xăng. Quả phao được gắn với vỏ của buồng phao bằng một khớp bản lề, sao cho nó có thể di chuyển lên xuống dễ dàng và luôn luôn nổi trên bề mặt xăng. Van có nhiệm vụ đóng, mở để điều khiển việc cấp xăng vào buồng phao. Kim van được gắn trên phao nên nó di chuyển lên, xuống cùng với phao. Khi lượng xăng trong buồng tăng thì phao nổi lên, kim van đi lên rồi đóng chặt lỗ van khi mức xăng đạt giá trị định mức. Khi mức xăng trong buồng giảm xuống thì phao đi xuống theo, kim van mở ra và xăng lại tiếp tục được cấp vào trong buồng.

- Đối với bộ chế hoà khí, áp suất trên mặt thoáng của buồng phao đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì lượng xăng mà nó cấp cho động cơ hoàn toàn phụ thuộc vào độ chênh áp giữa họng khuyếch tán và mặt thoáng buồng phao. Người ta phân biệt 2 dạng buồng phao: buồng phao cân bằng và buồng phao không cân bằng. Buồng phao cõn bằng có mặt thoáng được nối thông với khí trời, do vậy áp suất trong buồng phao luôn luôn bằng áp suất khí trời. Nó có nhược điểm là khi bầu lọc không khí bị tắc thì độ chân không trong họng hút tăng lên đáng kể, trong khi đó áp suất mặt thoáng buồng phao vẫn không đổi, do vậy lượng xăng bị hút vào sẽ vượt quá mức cần thiết. Buồng phao khụng cõn bằng có mặt thoáng được nối với ống hút, nằm ngay phía trên bướm khí, nhờ vậy mà khi độ chân không ở phía trước bộ chế hoà khí bị thay đổi (tắc lọc khí) thì áp suất mặt thoáng cũng thay đổi theo, do đó lượng nhiên liệu được hút vào vẫn không thay đổi.
- Bướm khí dùng để thay đổi độ chân không trong buồng hoà khí, nó thường chỉ được sử dụng khi khởi động động cơ ở trạng thái nguội (xem phần chế độ khởi động của chế hoà khí). Bướm khí thường được điều khiển bằng dây cáp từ trong ca bin ôtô.
Một vài hình ảnh về bộ chế hòa khí trên các dòng xe đời mới





Trên đây là nguyên lý hoạt động của bộ chế hoà khí tối giản. Trên thực tế, để cho bộ chế hoà khí có thể đáp ứng mọi chế độ làm việc của động cơ và tiết kiệm được nhiên liệu thì cấu tạo của nó phức tạp hơn rất nhiều. Bố chế hoà khí phải đảm bảo được các chế độ làm việc cơ bản sau đây của động cơ: chế độ không tải, chế độ khởi động, chế độ tải trung bình, chế độ toàn tải, chế độ mở bướm ga đột ngột, ngoài ra nó còn phải có các hệ thống đảm bảo tính tiết kiệm nhiên liệu và tránh ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, một bộ chế hoà khí thường có rất nhiều đường xăng, cùng với các cơ cấu, hệ thống điều chỉnh lượng xăng để phù hợp với chế độ làm việc của động cơ. Để xem chi tiết xin đọc bài viết Các chế độ làm việc của bộ chế hoà khí
cảm ơn bác
 

Bạn hãy đăng nhập hoặc đăng ký để phản hồi tại đây nhé.

Bên trên